Click here for Make money Online
Tham gia kênh Telegram kiếm tiền online ==> Click

(Soidiemchontruong.com) Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh đa dạng, phong phú về ngoại cảnh và tâm cảnh khắc họa nỗi buồn, sợ hãi mà Kiều đang nếm trải, dự báo sóng gió bão bùng mà nàng phải trải qua trong mười lăm năm lưu lạc "thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần".
Văn mẫu lớp 9: Đề : Hãy phân tích đoạn trích “Kiều ở
lầu Ngưng Bích” để thấy rằng: Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh tâm tình đầy
xúc động.
Từ một thiếu nữ tài sắc sống trong cảnh "êm đềm trướng rủ màn
che", Kiều đã trở thành món hàng trong màn mua bán của Mã Giám Sinh và giờ
nàng đang sống trong cô đơn, nhớ thương đau buồn, lo âu nơi lầu Ngưng Bích. Hai
mươi hai câu thơ trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã thể hiện rõ bức
tranh tâm cảnh của kiều.
Sống nơi lầu Ngưng Bích là kiểu sống trong sự cô đơn tuyệt đối:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, hai chữ "khóa xuân" đã nói lên
điều đó. "Khóa xuân" ở đây không phải nói tới những cô gái còn cấm
cung mà là sự mỉa mai, chua xót cho thân phận nàng Kiều. Nàng trơ trọi giữa
thời gian mênh mông, không gian hoang vắng trong hoàn cảnh tha hương, cô đơn,
giờ lại bị đầy vào chốn lầu xanh ô nhục. Trong cảnh ngộ như thế, Kiều chỉ còn
biết lắng nghe tiếng nói từ sâu thẳm lòng mình. Tâm trạng Kiều trải ra theo cái
nhìn cảnh vật. Nhìn lên trên là vầng trăng đơn côi, nhìn xuống mặt đất thì bên
là cồn cát nhấp nhô lượn sóng bên là bụi hồng cuốn xa hàng vạn dặm. Lầu Ngưng
Bích là một chấm nhỏ giữa thiên nhiên trơ trọi, giữa mênh mang trời nước. Cái
lầu cao ngất nghểu, trơ trọi ấy giam hãm một thân phận trơ trọi. Không một bóng
người, không một sự chia sẻ, chỉ có một thiên nhiên câm lặng làm bạn. Kiều chỉ
có một mình để tâm sự, để đối diện với chính mình. Trong cái không gian rợn
ngợp và thời gian dài dặc, quẩn quanh "mây sớm đèn khuya" gợi vòng
tuần hoàn khép kín của thời gian, tất cả như giam hãm con người, như khắc sâu
thêm nỗi đơn côi khiến Kiều càng thấy "bẽ bàng" chán ngắn, buồn tủi.
Sớm và khuya, ngày và đêm Kiều thui thủi một mình nơi đất khách quê người, nàng
chỉ còn biết làm bạn với mây và đèn. Trong nỗi cô đơn tuyệt đối ấy, lòng Kiều
dồn tới lớp lớp những chua xót. Buồn vì cảnh hoang vu, rợn ngợp và buồn vì tình
riêng khiến lòng như bị xé:
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng
Nguyễn Du từ cảnh vật trước lầu Ngưng Bích đã nói lên những nỗi lòng của Thúy
Kiều. Đó là sự cô đơn, vô vọng đến tuyệt đối và đó là những dư vị của bao tháng
ngày gian khổ, sưng tấy.
Tạm quên đi những chia xẻ trong lòng, Kiều nhớ về những người thân:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai
chờ.
Đối với những quy định
phong kiến. Kiều nhớ về người yêu rồi nhớ đến cha mẹ. Trong lúc này, nỗi đau
đớn tình người yêu vẫn còn da diết. Kỷ niệm còn mới đây thôi. Hơn thế nữa Kiều
lại bị Mã Giám Sinh mua chuộc, sớm bị đưa vào lầu xanh nên nỗi đau lớn nhất của
nàng lúc này là:
Tấm
son gột rửa bao giờ cho phai
Chính bởi thế mà người
đầu tiên nàng nghĩ tới là chàng Kim. Với cha mẹ, nàng đã hy sinh bán mình nên
phần nào đã đền đáp được ơn sinh thành. Còn với Kim Trọng, nàng là kẻ phụ tình,
lỡ hẹn. Trong tâm cảnh như thế, để Kiều nhớ chàng Kim trước là sự tinh tế của
ngòi bút Nguyễn Du. Nhớ tới người yêu là nhớ tới đêm trăng thề nguyền. Vừa mới
hôm nào, nàng cùng chàng uống chén rượu thề nguyền son sắt, một lòng cùng nhau
một đời mà nay mối tình duyên đã chia đột ngột. Câu thơ như có nhịp thổn thức
của trái tim rỉ máu. Kiều đau đớn hình dung Kim Trọng vẫn ngày ngày hướng về
nàng để chờ tin mà uổng công vô ích. Càng nhớ chàng Kim bao nhiêu thì Kiều lại
thương cho thân mình bấy nhiêu. Thương mình bơ vơ bên trời góc bể, càng nuối
tiếc mối tình đầu, càng hiểu rằng tấm son mà nàng dành cho chàng Kim chẳng bao
giờ nguôi ngoai. Không chỉ vậy mà tấm son đã bị hoen ố của nàng đến khi nào mới
rửa cho được. Trong nỗi nhớ còn có cả nỗi xót xa, ân hận, tủi hổ. Đặt trong
hoàn cảnh cô đơn, Kiều đã tạm để nỗi lòng mình lắng xuống và nhớ tới Kim Trọng.
Đó là sự vị tha và tấm lòng chung thủy của một con người.
Nếu khi nhớ tới Kim Trọng. Kiều "tưởng" thì khi nghĩ tới cha mẹ Kiều
"xót":
Xót
người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Nàng thương cha mẹ từ bấy đến nay vẫn sớm chiều tựa cửa chờ tin đứa con lưu
lạc. Nàng xót thương da diết và day dứt khôn nguôi vì không thể quạt nồng, ấp
lạnh, phụng dưỡng song thân khi già yếu. Thành ngữ "quạt nồng ấp
lạnh", điển cố "Sân Lai, gốc tử" đều nói lên tâm trạng nhớ
thương, tấm lòng hiếu thảo của Kiều. Nàng tưởng tượng nơi quê nhà tất cả đã đổi
thay. Cha mẹ thì mỗi người thêm một già yếu mà nàng thì chẳng thể ở bên chăm
sóc. Giờ đây khoảng cách không gian giữa nàng và cha mẹ là cách mấy nắng mưa.
Thiên nhiên không chỉ tàn phá cảnh vật mà còn tán phá cả con người. Lần nào khi
nhớ tới cha mẹ. Kiều cũng nhớ ơn chín chữ cao sâu và luôn ân hận mình đã phụ
công sinh thành nuôi dưỡng của cha mẹ. Nỗi nhớ của nàng được gửi vào chiều dài
thời gian, vào chiều sâu không gian bởi vậy mà càng thêm da diết, sâu xa. Dù
đau buồn bất hạnh nhưng trái tim Kiều đầy yêu thương, nhân hậu, vị tha. Nàng là
người tình chung thủy, là người con rất mực hiếu thảo, là người có tấm lòng vị
tha đáng trọng. Hai nỗi nhớ được biểu hiện khác nhau đó cũng là sự cảm thông lạ
lùng của nhà thơ, tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du đối với con người.
Vẫn việc sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình quen thuộc, những nỗi buồn khác nhau với lí do buồn khác nhau, trong lòng Kiều đã buồn tác động lại khiến càng buồn hơn và nỗi buồn ngày một ghê gớm, mãnh liệt hơn.
Vẫn việc sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình quen thuộc, những nỗi buồn khác nhau với lí do buồn khác nhau, trong lòng Kiều đã buồn tác động lại khiến càng buồn hơn và nỗi buồn ngày một ghê gớm, mãnh liệt hơn.
Buồn
trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa
xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ẩm âm tiếng sóng kêu quanh ghế
ngồi.
Tám câu thơ vừa là bức tranh tâm cảnh mà cũng là thực cảnh. Cảnh được miêu tả
theo kiểu tứ bình trong con mắt trông bốn bề và từ xa tới gần. Cảnh đầu tiên mà
Kiều trông thấy là bể lúc chiều hôm:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa
xa?
Không gian mênh mông và thời gian khi chiều tà muôn thuở gợi buồn. Giữa khung
cảnh ấy chỉ có một con thuyền vô định và hiện hữu với cánh buồm thấp thoáng xa
xa như một ảo ảnh. Cảnh đã gợi trong lòng người tha thương nỗi buồn nhớ về cha
mẹ, quê nhà xa cách, nỗi cô đơn và khát khao sum họp. Cánh hoa trôi man mác trên
ngọn nước mới sa gợi trong lòng Kiều nỗi buồn về thân phận trôi nổi, không biết
rồi sẽ bị trôi dạt, bị vùi dập ra sao:
Buồn
trông ngọn nước mới xa
Hoa trôi man mác biết là về đâu!
Cánh hoa làm Kiều xót xa cho duyên phận, số kiếp của mình. Sau một cửa biển một
cách hoa giữa dòng nước là cảnh của một nội cỏ.
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Cả một nội cỏ trải ra mênh mông nhưng khác với cỏ trong ngày Thanh minh. Đó là
"cỏ non xanh rợn trân trời", còn cỏ ở đây "dầu dầu". Một
màu vàng úa gợi tới sự héo tàn, buồn bã. Màu xanh nhàn nhạt trải dài từ mặt đất
tới chân mây không phải màu xanh của sự sống của hy vọng mà chỉ gợi nỗi chán
ngán vô vọng vì cuộc sống vô vị, tẻ nhạt, cô quạnh này không biết bao giờ mới
kết thúc. Cảnh mờ mịt cũng giống như tương lai mờ mịt, thân phận nội cỏ hoa héo
của Thúy Kiều. Và cuối cùng là cảnh con sóng nổi lên ầm ầm sau cơn gió:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế
ngồi.
Tiếng sóng như báo trước sóng gió dữ dội của cuộc đời hay cũng chỉ là tiếng kêu
đau đớn của Kiều đồng vọng với thiên nhiên. Kiều không chỉ buồn mà còn lo sợ,
kinh hãi như đang đứng trước sóng gió, bão táp của cuộc đời này sắp đổ xuống
đầu nàng. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ
tĩnh đến động. Cảnh ngày một rõ hơn để diễn tả nỗi buồn từ man mác mông lung
đến âu lo kinh sợ dồn đến bão táp nội tâm. Thiên nhiên chân thực, sinh động
nhưng mờ ảo bởi nó được nhìn theo quy luật "cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Và đó cũng là hiện thân, là tang vật
của quá khứ khổ đau, hiện tại lẻ loi bất hạnh và báo hiệu một tương lai khủng
khiếp. Tất cả đều là hình ảnh về sự vô định, mong manh, vô vọng, sự trôi dạt,
bế tắc. Đoạn thơ gồm bốn cặp câu lục bát cũng là bốn cảnh và cặp câu được liên
kết nhớ điệp ngữ "buồn trông".
Buồn trông cửa biển chiều hôm
... Buồn trông ngọn nước mới sa
.....Buồn trông nội cỏ dầu dầu
......Buồn trông gió cuốn mặt duềnh.
"Buồn trông" là nhìn xa mà trông ngóng một cái gì mơ hồ sẽ đến làm
thay đổi hiện tại nhưng trông mà vô vọng. "Buồn trông" có cái thoảng
thốt lo âu, có cái xa lạ cuốn hút tầm nhìn, có cả sự dự cảm hãi hùng của người
con gái lần đầu lạc bước giữa cuộc đời ngang nửa. Điệp ngữ kết hợp với các hình
ảnh đứng sau cùng các từ láy đã diễn tả nỗi buồn với nhiều sắc độ khác nhau,
trào dâng lớp lớp như những con sóng lòng. Điệp ngữ tạo nên những vần bằng, gợi
âm hưởng trầm buồn man mác, diễn tả nỗi buồn mênh mang sâu lắng, vô vọng đến vô
tận. "Buồn trông" trở thành điệp khúc của đoạn thơ cũng như điệp khúc
của tâm trạng. Bằng một gam màu nhạt và lạnh, Nguyễn Du đã vẽ lên một bộ tứ
bình tâm trạng hết sức độc đáo và xúc động. Khúc ca khép lại đầy dư âm với hòa
tấu phức điệp của sóng biển, "sóng lòng", "sóng đời" đang
vang lên những tiếng gầm gào của hiểm họa như muốn hất tung, nhấn chìm người
con gái cô đơn, tội nghiệp trên điểm tựa chiếc ghế đời mỏng manh. Lúc này Kiều
trở nên tuyệt vọng, yếu đuối nhất để rồi sự bị lừa gạt và dấn thân vào cuộc đời
"thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần". Để thể hiện tâm trạng phức tạp
mỗi nỗi buồn ôm trọn ba nỗi buồn: buồn nhớ người yêu, buồn nhớ cha mẹ và buồn
cho chính mình, Nguyễn Du đã chọn cách thể hiện "tình trong cảnh ấy, cảnh
trong tình này" thật độc đáo tạo nên đoạn thơ tuyệt bút với bút pháp tả
cảnh ngụ tình.
Tóm lại, Kiều ở lầu Ngưng Bích là một
bức tranh đa dạng, phong phú về ngoại cảnh và tâm cảnh khắc họa nỗi buồn, sợ
hãi mà Kiều đang nếm trải, dự báo sóng gió bão bùng mà nàng phải trải qua trong
mười lăm năm lưu lạc "thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần". Đoạn thơ
có giá trị nhân bản sâu sắc đồng thời thể hiện tấm lòng nhân hậu, cảm thương
chia sẻ của Nguyễn Du với nỗi đau của Thúy Kiều.
Liên quan (Soidiemchontruong.com)
>> Xem điểm chuẩn vào lớp 10 cả nước
Văn mẫu, lớp 9, Ngữ văn, Ngữ Văn 9, Ôn thi, ôn thi vào 10,
Các bài văn mẫu lớp 9 - Các đề văn lớp 9 dành cho học sinh ôn thi vào lớp 10 THPT
Văn mẫu, lớp 9, Ngữ văn, Ngữ Văn 9, Ôn thi, ôn thi vào 10,
Các bài văn mẫu lớp 9 - Các đề văn lớp 9 dành cho học sinh ôn thi vào lớp 10 THPT
Tham gia kênh Telegram kiếm tiền điện tử => Click here
Download document
Sell off ==> Click
0 comments Blogger 0 Facebook
Post a Comment